1. Ý nghĩa chân thật của ‘Bổn Nguyện Niệm Phật’
Các bạn đồng học:
Chào các bạn, thầy Ngộ Ðạo gởi đến câu hỏi của một vị đồng tu ở trường Ðại học Lý Công, Nam Kinh như vầy: “Gần đây có người rao truyền ‘Bổn Nguyện Niệm Phật’ chẳng y chiếu những lời dạy trong Tịnh Ðộ Tam Kinh, chẳng cần tin, chẳng cần phát nguyện, và cũng chẳng cần niệm Phật đều có thể vãng sanh”. Nhiều bạn đồng học chưa hiểu sâu vào [giáo nghĩa] Tịnh Tông nghe xong rất hoang mang’, xin pháp sư từ bi giảng giải.
Ðây đích thật là một vấn đề rất nghiêm túc và quan trọng, nếu giải thích lệch lạc vấn đề này thì có thể dẫn dắt rất nhiều đồng tu lầm đường, lạc lối, đánh mất cơ hội niệm Phật vãng sanh ngay trong đời này của họ, những người rao truyền lời nói này phải gánh chịu trách nhiệm nhân quả. Trong kinh nói nhất định sẽ đọa địa ngục A Tỳ! Bốn chữ ‘Bổn nguyện niệm Phật’ chẳng sai, nhưng họ giải thích ý nghĩa của nó sai hoàn toàn. Trước khi nhập diệt đức Phật biết rất rõ tình huống trong xã hội hiện tại của chúng ta, rõ ràng vô cùng. Trong chương Thanh Tịnh Minh Hối của kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói: ‘Tà sư thuyết pháp như cát sông Hằng’. Những lời trong kinh này là nói về đời hiện tại của chúng ta — đời pháp nhược ma cường, chúng sanh nhận giả mà chẳng nhận thiệt, chịu nghe lời gạt mà chẳng chịu nghe lời khuyên!
Các vị đồng học Tịnh Tông chúng ta phải học theo đức Phật, đức Phật có tâm nhẫn nại chờ đợi những người này. Tôi cảm thấy nhiều người trong nhóm đồng học chúng ta có nhiệt tâm hơn đức Phật, họ nôn nóng muốn độ hết thảy chúng sanh đến Tây phương Cực Lạc thế giới. Nhưng quay đầu lại và thiệt lòng phản tỉnh coi tự mình có thể vãng sanh được hay chăng? Tự mình chẳng có khả năng được độ mà muốn độ người khác! Trong kinh thường nói câu: ‘không có chuyện này!’ (vô hữu thị xứ!), mọi người thường nghe câu này, nghe đến thuộc lòng luôn. ‘Phật không độ người vô duyên’, chúng ta phải hiểu những người này chẳng có duyên với Phật, chẳng có duyên nghĩa là không tin. Không tin vào những lời dạy trong Tịnh Ðộ Tam Kinh, không thể y giáo phụng hành, mà lại nghe những lời rao truyền này, đây tức là chẳng có duyên với Phật, trong đời này họ nhất định chẳng thể thành tựu.
a. Bổn nguyện là gì?
Bổn nguyện rốt cuộc là gì?
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’. Bạn hãy xem khóa tụng hằng ngày của Tịnh Tông chúng ta, khóa sáng thì niệm bốn mươi tám lời nguyện, khóa tối sám trừ nghiệp chướng. Nếu chẳng sám trừ nghiệp chướng thì nhất định không thể vãng sanh. Tuy pháp môn này nói ‘đới nghiệp vãng sanh’, các vị Tổ sư đại đức xưa nay đã nói đến rất nhiều ‘chỉ mang theo nghiệp cũ, chứ không mang theo nghiệp mới’. Những nghiệp mà bạn đang tạo hiện nay thì không thể mang theo, chữ ‘đới’ nghĩa là ‘đem theo, mang qua bên đó’; việc sai lầm trong quá khứ không sao, hôm nay sửa cho đúng lại. Câu ‘không kể quá khứ, chỉ luận hành vi hiện nay’ là nguyên lý và nguyên tắc của đới nghiệp vãng sanh. Bây giờ vẫn tiếp tục tạo nghiệp thì chẳng thể vãng sanh, nhất định phải hiểu đạo lý này.
Bổn nguyện, có người nói bổn nguyện là nguyện thứ mười tám, nhưng phần đông nhiều người không hiểu rõ nghĩa thú! Nguyện thứ mười tám hàm nhiếp hết thảy bốn mươi bảy nguyện kia một cách rốt ráo viên mãn, thiếu một nguyện trong bốn mươi bảy nguyện kia thì nguyện thứ mười tám sẽ không viên mãn. Vị ‘đại đức’ rao truyền ‘bổn nguyện niệm Phật’ có hiểu đạo lý này hay không?
Bất cứ một nguyện nào trong bốn mươi tám nguyện đều hàm nhiếp bốn mươi bảy nguyện kia một cách rốt ráo viên mãn, nguyện nào cũng như vậy cả. Tuy chúng tôi chưa giảng xong kinh Hoa Nghiêm nhưng mọi người cũng đã nghe kinh chẳng ít. Trong câu ‘một tức là nhiều, nhiều tức là một’ (nhất tức thị đa, đa tức thị nhất) của kinh Hoa Nghiêm thì ‘một và nhiều là không hai’ (nhất đa bất nhị) mà! ‘Một tức là hết thảy, hết thảy tức là một’ (nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất), người đó có hiểu không? Bổn nguyện niệm Phật là ‘một tức là hết thảy’, cho nên công đức của bổn nguyện rất thù thắng; tuyệt đối chẳng phải nói ‘chỉ dựa vào nguyện thứ mười tám mà thôi, bốn mươi bảy nguyện kia không cần nữa’; nếu bốn mươi bảy nguyện kia đều không thực hiện được thì nguyện thứ mười tám cũng không làm được luôn. Nguyện thứ mười tám là gì? Nguyện thứ mười tám là tổng cương lãnh của bốn mươi bảy nguyện kia. Vì vậy lời rao truyền này là của ma thuyết pháp chứ chẳng phải của Phật.
Trước khi nhập diệt đức Phật dạy chúng ta ‘Tứ y pháp’, thứ nhất là ‘Y pháp bất y nhân’. Pháp là gì? [Pháp là kinh điển] Kinh Vô Lượng Thọ là kinh đầu tiên của Tịnh Tông. Ðời Ðông Tấn, Huệ Viễn đại sư xây dựng đạo tràng niệm Phật đầu tiên ở Lô Sơn – Ðông Lâm Niệm Phật Ðường, những đồng tu có cùng chung chí hướng và đạo tâm gồm có một trăm hai mươi ba người. Lúc đó kinh điển Tịnh Tông chỉ có kinh Vô Lượng Thọ, các kinh kia chưa được phiên dịch. Những người trong đạo tràng Lô Sơn đều y theo kinh này, một trăm hai mươi ba người này đều vãng sanh một cách vững vàng, thích đáng. Ðạo tràng này vô cùng thù thắng, trang nghiêm, chúng ta phải đi theo đường của người xưa, kế thừa [sự nghiệp của] người xưa.
Gần đây Ấn Quang lão pháp sư là người cuối đời nhà Thanh đầu thời Dân Quốc, rất nhiều đồng tu đều biết. Ngài là hóa thân của Tây Phương Cực Lạc thế giới Ðại Thế Chí Bồ Tát tái lai. Chúng ta chẳng có dịp được gặp lão pháp sư, nhưng Văn Sao của Ngài vẫn còn lưu truyền trong thế gian, [chúng ta] nên đọc tụng kỹ càng, y giáo phụng hành. Ngày nay con đường chúng ta đi là kế thừa Ấn Quang đại sư. Thầy tôi là lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, thầy là học trò của Ấn Quang đại sư, cả đời thầy làm theo lời dạy của đại sư. Tôi thân cận học hỏi thầy Lý được mười năm, thầy không dám đảm đương vai trò của thầy giáo, thầy giới thiệu cho tôi một người thầy. Người thầy này là ai? Tức là thầy của thầy Lý, Ấn Quang đại sư. Do đây có thể biết thầy Lý có đức hạnh, học vấn, và vô cùng khiêm tốn! Thầy dạy tôi phải hết lòng phát tâm đọc tụng Văn Sao và y giáo phụng hành, được vậy [mới xứng đáng] làm đệ tử của Ấn Quang đại sư.
Tôi khuyên hết thảy các vị đồng tu ở khắp nơi noi theo kinh Vô Lượng Thọ và làm đệ tử của A Di Ðà Phật một cách gọn tắt, ổn đáng. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập kinh Vô Lượng Thọ, nếu cụ Hạ không phải là A Di Ðà Phật tái lai thì phải là Quán Thế Âm Bồ Tát tái lai, nếu không thì chẳng thể hội tập bộ kinh này được hoàn hảo như vậy. Chúng ta biết ông Vương Long Thư hội tập lần đầu tiên vào triều nhà Tống, ông Ngụy Mặc Thâm hội tập lần thứ hai vào triều nhà Thanh, cả hai đều không hoàn hảo! Thời mạt pháp đích thực có nhu cầu phải hội tập kinh này nên cảm được Phật, Bồ Tát đến thị hiện. Quý vị không tin, nhưng tôi tin; ai tin thì được lợi ích. Chúng ta biết được những người y chiếu lời dạy trong bản kinh này để tu hành và khi vãng sanh có tướng lành trong những năm gần đây rất nhiều, những người chúng ta được nghe nói đến càng nhiều hơn. Nếu các bạn chẳng tin mà cứ nghe theo lời [rao truyền] của người ta thì không còn cách nào để nói nữa?
Ngày nay trong thời đại dân chủ tự do, rộng mở, ai cũng không có quyền can thiệp người khác, thế thì phải coi duyên phần của chúng ta với đức Phật A Di Ðà sâu hay cạn. Chúng ta đọc bản hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư, không cần hỏi lão cư sĩ là người như thế nào, không cần như vậy. Hãy coi bản hội tập của ngài đúng như pháp hay không? Chúng ta phải xây dựng lòng tin từ điểm này, chẳng phải mê tín, chẳng phải mù quáng. Tôi đã in năm bản dịch của kinh Vô Lượng Thọ và bốn bản hội tập chung thành một cuốn và đề tên sách là ‘Tịnh Ðộ Ngũ Kinh Ðộc Bổn’; trước sau đã in hết hai, ba vạn quyển. Chư vị đồng tu hãy tự xem và so sánh, để quý vị xây dựng lòng tin vững chắc bằng cách này. Sau đó quý vị hãy quán sát kỹ số người noi theo [lời rao truyền] ‘Bổn nguyện niệm Phật’ mà vãng sanh được bao nhiêu người? Họ có tướng lành gì chăng?
b. Chẳng phát nguyện thì niệm Phật không thể vãng sanh.
Kinh Vô Lượng Thọ dạy rất rõ ràng, điều kiện căn bản của ba bậc vãng sanh là: ‘Phát Bồ Ðề tâm, một hướng chuyên niệm’, làm sao có chuyện chẳng phát nguyện mà có thể vãng sanh được? Không có đạo lý này! ‘Chẳng phát nguyện, niệm Phật’ người xưa có nói: ‘Cho dù mỗi ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu, chẳng phát nguyện thì hét bể cuống họng cũng uổng công mà thôi!’
Tại sao vậy? Bạn chẳng chịu vãng sanh mà!
Tâm nguyện vãng sanh, buông xuống vạn duyên tức là tâm Bồ Ðề.
Trong Yếu Giải, đại sư Ngẫu Ích đã dạy chúng ta: ‘Nếu muốn vãng sanh tăng cao phẩm vị, nhất định phải có tâm giống như tâm Phật, nguyện giống nguyện của Phật, hạnh giống hạnh của Phật’. Tâm chẳng giống tâm của A Di Ðà Phật, nguyện cũng chẳng giống nguyện của A Di Ðà Phật, hành vi cũng chẳng giống A Di Ðà Phật, cho dù bạn vãng sanh thì phẩm vị cũng rất thấp; huống chi là bạn không thể nào vãng sanh được! Chúng ta phải nhớ kỹ nghe!
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, phu nhân Vy Ðề Hy cầu sanh Tịnh Ðộ, thỉnh giáo đức Phật Thích Ca:
‘Con phải tu học như thế nào mới có thể vãng sanh Cực Lạc thế giới?’
Trước khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng giải phương pháp tu học cho bà, Ngài đã giảng rõ ‘Tịnh Nghiệp Tam Phước’, giảng rõ cho chúng ta đây là ‘Chánh nhân Tịnh nghiệp của ba đời chư Phật’. Nói một cách khác bất luận Phật quá khứ, Phật hiện tại, hay Phật tương lai, hết thảy những người tu hành thành Phật đều xây dựng trên cơ sở, nền tảng này, nếu không có cơ sở này thì chẳng kể họ ráng sức tu hành ra sao đều không thể thành tựu. Cũng như việc xây nhà, đây là nền móng. Hai câu đầu trong cơ sở này là: ‘Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng’, người Trung Quốc thường dùng danh từ: ‘hiếu thân tôn sư’. Mọi người ở Tây phương Cực Lạc thế giới đều là người con có hiếu nhất, đều là học sinh giỏi nhất. Trong kinh Vô Lượng Thọ xưng họ là ‘đệ tử hạng nhất của Như Lai’! Làm sao có chuyện ‘chẳng phát nguyện’ này? Việc này hoàn toàn sai lầm! Những người có đầu óc sáng suốt một chút đều có thể phân biệt và nhận ra. Nếu ngay cả việc này cũng không thể nhận ra sự khác biệt, sự học Phật của chúng ta đều là vô ích, nghe giảng kinh bao nhiêu năm nay cũng luống uổng, vô ích! ‘Tịnh Nghiệp Tam Phước’ tức là hạnh của Phật – Hành vi của chư Phật Như Lai được thể hiện trong sanh hoạt thường ngày. Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Ðộ, Thập Nguyện đều là sự hành trì của chư Phật. Chúng ta đã làm được chưa? Tôi thường khuyên các vị đồng tu khi khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác phải đối chiếu với năm khoa mục này, nếu tương ứng, phù hợp thì hạnh của quý vị là chánh hạnh; nếu không tương ứng thì hạnh của quý vị là tà hạnh, tà hạnh chẳng thể vãng sanh được đâu!
Cho nên chúng tôi biên soạn năm đề mục của Tịnh Tông thành cuốn sách nhỏ gọi là ‘Nguyên tắc tu hành’, đây là nguyên tắc chúng ta nhất định phải tuân theo trong đời sống, công việc, xử sự, đãi người, tiếp vật hằng ngày, nhất định chẳng thể làm trái ngược. Nếu làm trái ngược thì niệm Phật, phát nguyện cũng không thể vãng sanh. Tại sao vậy? Nguyện này của bạn là nguyện giả, nguyện suông, không thực tế. Khi chúng ta phát nguyện hồi hướng, bạn lấy gì để hồi hướng? Nói suông, hồi hướng suông thì không được, bạn phải dùng những gì thực tế để hồi hướng. Thực tế là gì? Thực tế là tu hành chứng quả, đoạn ác tu thiện, chuyển mê thành ngộ. Ðây là công đức tu hành chân thật của mình, mình phải dùng cái này để hồi hướng. Hôm nay bạn không phát nguyện và cũng không niệm Phật, làm sao bạn có thể vãng sanh cho được?
c. Ðời mạt pháp, tà sư nhiều như cát sông Hằng.
‘Ðồng tu Tịnh Tông nghe xong khởi lên rất nhiều nghi vấn’, những người này vô tri, ngu muội, là những người đáng thương! Giống như mấy năm trước đây ông Trần Kiến Dân ở Mỹ đã tuyên bố khắp thế giới rằng: ‘đới nghiệp không thể vãng sanh’, làm những người niệm Phật khắp thế giới vô cùng phân vân, thắc mắc. Ðó là ma, không phải là Phật đâu! Ngay cả những vị như lão cư sĩ Châu Tuyên Ðức cũng lung lay lòng tin. Khi tôi đến Los Angeles ông ra phi trường đón tôi, vừa gặp mặt liền hỏi:
‘Pháp sư, hiện nay có người nói: ‘đới nghiệp không thể vãng sanh’, phải ‘tiêu nghiệp mới có thể vãng sanh’, vậy thì phải làm sao?’.
Tôi bèn nói với ông: ‘Không vãng sanh thì thôi!’.
Ông nghe xong lời này vô cùng hoang mang; tôi nhìn ông đờ cả người, đứng đó nói chẳng nên lời. Tôi nói:
‘Nếu không đới nghiệp, thì Tây phương Cực Lạc thế giới chỉ có đức Phật A Di Ðà cô độc một mình trên đó, ông còn lên đó làm gì?’
Ông vẫn còn chưa hiểu, tôi mới nói thêm:
‘Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát đều là Ðẳng Giác Bồ Tát, vẫn còn một phẩm Sanh Tướng vô minh chưa phá trừ, như vậy có phải là đới nghiệp hay không?’.
Nghe xong ông mới tỉnh ngộ — Quán Âm, Thế Chí đều đới nghiệp, chỉ có một mình A Di Ðà Phật là chẳng đới nghiệp mà thôi.
‘Nhưng trong kinh chẳng có nói ‘đới nghiệp vãng sanh’?’
Tôi trả lời: ‘Trong kinh có nói đến bốn cõi, ba bậc, chín phẩm hay không?’
‘Có!’
‘Nếu không đới nghiệp thì mọi người đều bình đẳng, vậy thì đâu có ba bậc, chín phẩm phải không?’
Ðây là lời đức Phật dạy chúng ta: ‘Noi theo nghĩa chứ không noi theo lời nói’, tuy đức Phật chẳng có nói ‘đới nghiệp vãng sanh’, [nhưng] có nói đến ba bậc, bốn cõi, chín phẩm, vậy thì ý tứ của chữ đới nghiệp đều nằm trọn trong đó rồi. Bạn đem theo nghiệp nhiều thì phẩm vị của bạn thấp; bạn đem theo nghiệp ít thì phẩm vị của bạn sẽ cao. Ðâu có đạo lý chẳng đới nghiệp!
Người học Phật phải khai mở trí huệ, tại sao có thể vừa nghe người ta nói hai ba câu thì lung lay lòng tin liền, mê hoặc điên đảo như vậy? Bạn nói người như vậy có đáng thương hay không? Niệm Phật suốt cả đời, bảy tám chục tuổi rồi, vừa nghe lời đồn đãi của người ta thì lung lay niềm tin, thiệt là đáng thương quá! Vì vậy nên đức Phật dạy chúng ta: ‘Y pháp chứ đừng y theo người’, ‘Y nghĩa chứ không y theo lời nói’, pháp là kinh điển; kinh điển của Tịnh Tông là năm kinh, một luận, phải hiểu lời dạy của Ngài.
‘Bổn nguyện niệm Phật’ có sai không?
Không sai!
Vậy thì ‘bổn nguyện’ là gì?
Năm kinh, một luận là bổn nguyện, bốn mươi tám nguyện là bổn nguyện của đức Phật A Di Ðà, rút một câu trong đó ra thì không được! Rút ra bất cứ một câu nào trong đó, nếu bạn hiểu được ‘một tức là nhiều’, một câu tức là toàn bộ năm kinh và một luận, nếu bạn có công phu đến mức này thì có thể hiểu như vậy, có thể như vậy. Nếu không có công phu đến mức này thì hãy ngoan ngoãn, thực thà theo thứ tự mà bước đi từ từ, học tập theo thứ lớp đàng hoàng, được vậy bạn sẽ thành công. Hễ không đúng như pháp, giải sai, lệch lạc ý nghĩa của bổn nguyện niệm Phật thì đều là ma hết; ma sợ bạn thành tựu ngay trong một đời này nên mau mau kéo bạn trở lại, đẩy bạn vô địa ngục A Tỳ xong thì ma mới vui! Ðược rồi, tôi giải thích vấn đề này cho các bạn đến đây thôi.
Ngày 5 tháng 1, 2000 tại Báo Ân Ðường Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba.